Trường phái Âm nhạc Cổ điển - Piano Thy Nguyen


Thuật ngữ Cổ điển, kinh điển (classique) có nghĩa là mẫu mực, kiểu mẫu. Các tác phẩm âm nhạc mang tính mẫu mực thì gọi là âm nhạc cổ điển. Cổ điển còn là khuynh hướng nghệ thuật của các nước châu Âu đầu thế kỷ XVII và đầu thế kỷ XIX. Các nhạc sĩ cổ điển muốn phục hồi nguyên lý thẩm mỹ Hy Lạp – La Mã , dùng những nguyên tắc sáng tác thời cổ đại để nói về thời đại mình đang sống.

Trường phái cổ điển đầu tiên hình thành trong văn học và một phần trong nghệ thuật sân khấu Pháp thế kỷ XVII. Người Pháp muốn thể hiện những tư tưởng tiến bộ thời đó là thống nhất toàn bộ nền văn hóa dân tộc, chống lại sự phân quyền của các lãnh chúa. Đây là tiền đề cho cách mạng tư sản Pháp 1789. Nội dung tác phẩm nói về đề tài bảo vệ tổ quốc, nói lên trách nhiệm của người công dân với tổ quốc.
Hạn chế của trường phái cổ điển là có mối liên hệ chủ yếu chỉ với sinh hoạt nghệ thuật trong cung đình, trong tầng lớp quý tộc.

Nhạc sĩ cổ điển xây dựng phương pháp nghệ thuật mang tính cao thượng, lý tưởng, ngôn ngữ khúc chiết, hợp lý, hoàn chỉnh về nội dung và hình thức. Đặc điểm âm nhạc cổ điển là khúc chiết, hài hòa, cân đối, hình tượng đầy đặn, sinh động. Tác phẩm thể hiện sự vĩ đại, đồ sộ, cao thượng. Các nhạc sĩ quy tắc hóa các thủ pháp sáng tác.

Sang thế kỷ XVIII (thời đại Ánh Sáng), tư tưởng xã hội chuẩn bị cho cuộc cách mạng tư sản. Thời kỳ này có sự xuất hiện các nhạc sĩ trường phái Cổ điển Vienne. Đề tài âm nhạc mang tính dân chủ, chống lại quân chủ chuyên chế, có liên quan chặt chẽ với cuộc cách mạng Tư sản Pháp 1789, với tư tưởng nhân đạo, niềm tin vào chân lý, tinh thần lạc quan. Đại diện chính của trường phái âm nhạc Cổ điển Vienne là Gluck, Haydn, Mozart và Beethoven.

Thời đại Ánh Sáng đề cao con người, trách nhiệm của công dân với tổ quốc. Sinh hoạt âm nhạc thính phòng lấn át sinh hoạt âm nhạc tôn giáo. Ngôn ngữ âm nhạc thời này đơn giản, mang tính hiện thực, đề cao tinh thần lạc quan, chú ý đến nhạc dân tộc (âm nhạc Haydn mang tính dân gian Áo). Âm nhạc thế kỷ XVIII đề cao những cảm xúc say mê, là tiền đề cho trường phái Lãng mạn sau này. Một số giao hưởng thập niên 80 của Haydn và một số giao hưởng Mozart mang tính trữ tình, u buồn.

Các nhạc sĩ Cổ điển Viên đã đề ra nhiều nguyên tắc cho việc sáng tác âm nhạc.
Về hình thức, trường phái này hoàn thiện hình thức sonate, một hình thức sử dụng sự tương phản để tạo kịch tính cho tác phẩm, phản ánh hiện thực xã hội. Hình thức sonate gồm 3 phần chính:
  1. Phần trình bày: Chính-Nối-Phụ-Kết 
  1. Phần phát triển: Các hình tượng ở phần trình bày được phát triển ngày càng tương phản gay gắt tạo trung tâm kịch tính cho tác phẩm. 
  1. Phần tái hiện: nhắc lại chủ đề ở phần trình bày ở nguyên dạng. 
Hình thức sonate có thể có thêm hai phần phụ là phần mở đầu và phần Coda. 
Haydn đã hoàn thiện thể loại giao hưởng cổ điển 4 chương bằng cách ứng dụng liên khúc sonate vào giao hưởng. 
  • Chương 1 allegro sonate, trình bày các hình tượng chủ đề tương phản (thường là 2 chủ đề). 
  • Chương 2 chậm, tự do, trữ tình hay bi thương. 
  • Chương 3 nhịp ba bốn, viết theo thể loại vũ khúc menuet hoặc scherzo, mang tính vui tươi hay châm biếm. 
  • Chương 4 nhanh (thường nhanh nhất trong 4 chương), hình thức sonate hoặc rondo-sonate, mang tính tổng hợp các chương trên. 
Sự hoàn thiện của hình thức sonate và liên khúc sonate là động cơ phát triển các thể loại âm nhạc như song tấu, tam tấu, tứ tấu, concerto… Các nhạc sĩ Cổ điển Vienne rất chú trọng sự cân đối giữa các câu nhạc, đoạn nhạc, chương nhạc. 

Giai đoạn này là đỉnh cao của sự tổng kết công năng hoà âm TSDT, công năng kép, chuyển điệu. Trường phái Cổ điển Vienne chú trọng sự kết hợp hài hòa giữa các hợp âm thuận và nghịch, hướng theo hướng hòa âm chủ điệu. Các nhạc sĩ sử dụng chủ yếu là trưởng tự nhiên và thứ hòa âm, tạo thuận tiện cho sự phát triển hòa âm công năng. 

Chủ đề lấy chất liệu từ âm nhạc dân gian châu Âu. Giai điệu trong sáng, giản dị. Thời này thịnh hành thủ pháp phát triển motif. 

Trường phái Cổ điển Vienne phát triển trên lĩnh vực khí nhạc rất mạnh, nhất là các tác phẩm cho dàn nhạc giao hưởng. Trong dàn nhạc giao hưởng, kèn thường xuyên ở vị trí solo hơn trước (clarinette, cor). Trombone xuất hiện lần đầu tiên trong các giao hưởng Luân đôn của Haydn và tác phẩm Khúc tưởng niệm (Requiem) của Mozart. Beethoven dùng kèn mô tả những hình tượng anh hùng, mang kịch tính cao. Haydn, Mozart, Beethoven đều có tác phẩm cho đàn phím. 

(Trích tài liệu Lịch sử Âm nhạc thế giới - Nhạc viện Tp. HCM - Năm 2010)

           

Bài đăng phổ biến từ blog này

"Vòng Tròn Quãng 5" và Cách Sử Dụng - Piano Thy Nguyen

Link Download Czerny Op. 599 và Le Déliateur - Piano Thy Nguyen

[ PDF ] Nên Luyện Ngón Bằng Giáo Trình Nào? - Tài liệu học Piano HANON - Piano Thy Nguyen